Thổ huyệt: Huyệt mộ trong đất. Còn có huyệt ở núi đất núi đá. Thổ huyệt trên núi đất, chọn chỗ chất đất mịn nhỏ, chắc chắn là cát (lành), nếu quá ẩm thấp, tơi tả thì hung; trên núi đá thì mở huyệt ở chỗ có đất màu hồng và màu vàng thì cát.
Thạch huyệt: Huyệt mộ trong đá. Còn có sự khác nhau ở núi đất, núi đá. Thạch huyệt trên núi đá, chọn chỗ đá mềm, ấm, dễ đào khoét là cát; trên núi đất thì mở thạch huyệt ở chỗ đá có màu tím và màu trắng, chất đá mềm ấm là cát, nếu chất đá cứng khô là hung.
Bối tù chi huyệt: Chỉ huyệt mộ đặt ở chỗ sườn núi u ám, ẩm thấp. Táng ở đó sẽ bị kiến đục và nước xối lở, không cát lành.
Đằng lậu chi huyệt: Chỉ huyệt mộ đặt ở chỗ mạch núi xung quanh huyệt bảo vệ không chu đáo, hoặc trên sống núi có chỗ khuyết. Táng ở đó sẽ bị gió thổi, không cát lành.
Bất cập chi huyệt: Chỉ huyệt mộ mà ở ngay phía trước không có án sơn, triều sơn, khiến Ao phong thổi thẳng vào, đời con cháu sẽ bị tuyệt tự, hung.
Huyệt thổ: Chỉ thổ nhưỡng ở rất sâu dưới mặt đất chỗ có huyệt mộ. Bên trên nó là Thực thổ, trên nữa là Phu thổ. Huyệt thổ ở dưới cùng, như hạt châu dưới vực, như ngọc trong đá; khi đào huyệt mộ tất phải đào tới Huyệt thổ, không được đào xuyên sâu hơn. Vì huyệt thổ tàng chứa sinh khí, nếu chưa đào tới đo thì chưa đắc khí, nếu đào xuyên qua ắt làm tổn thương Long cốt. Phân biệt Huyệt thổ thì căn cứ vào màu sắc va đường vân của đất. Mà sắc của huyệt thố thì trong và nhuận ẩm, đường vân của huyệt thổ thì có nhiều dạng, hoặc như đồ hình Thái cực, hoặc như vỏ ốc, hoặc như lỗ vuông của đồng tiền cổ, vừa vặn dung nạp quan quách; hoặc bao quanh tảng đá, gỡ bỏ tảng đá đi thì thành huyệt. Còn có cách, khi đào tơi huyệt thổ thì dùng ngón tay vê thử, nếu đất thành viên tròn, đó chính là chân thổ (đất thực sự). Sâu dần xuống, đất cứng lại, không thể vê thành viên nhỏ, tức là chân thổ đã hết, nên san lấp lại dày chừng 2 ~ 3 tấc, rồi hãy đưa quan tài xuống.